Ngày 27/2/2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch này rất quan trọng, nhằm tạo định hướng chiến lược, cơ sở pháp lý cũng như động lực để ngành Y tế phát triển mạng lưới cơ sở y tế, nhằm hướng tới các mục tiêu mong muốn về y tế trong tình hình mới theo tinh thần, định hướng của Đảng, nhà nước.
Đồng thời, Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế được phê duyệt cũng giúp các địa phương có cơ sở tham chiếu cũng như có những hướng dẫn mang tính nguyên tắc để phát triển mạng lưới cơ sở y tế trên địa bàn. Đây vốn là một cấu phần quan trọng trong quy hoạch chung của các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương cũng như quy hoạch vùng.
Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế được xác định thuộc nhóm quy hoạch ngành Quốc gia nên có một số đặc điểm cơ bản như sau:
+ Thời kỳ quy hoạch: là giai đoạn 2021-2030 và có tầm nhìn dài hạn (đến năm 2050).
+ Nội dung quy hoạch: chủ yếu là xác định phương hướng phát triển, phân bổ, tổ chức không gian, nguồn lực cho các cơ sở y tế mang tính liên ngành, liên vùng, liên tỉnh.
+ Phạm vi ranh giới quy hoạch: trên toàn quốc.
+ Đối tượng quy hoạch: gồm 5 cơ sở y tế cấp vùng, liên tỉnh và liên ngành thuộc các lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng; giám định y khoa, giám định pháp y và giám định pháp y tâm thần; y tế dự phòng, y tế công cộng; kiểm nghiệm, kiểm định, kiểm chuẩn về thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm, vắc xin và sinh phẩm y tế, thiết bị y tế, sản xuất dược phẩm, vaccine, sinh phẩm y tế và thiết bị y tế; lĩnh vực dân số - sức khỏe sinh sản.
Như vậy, quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế không bao gồm các đơn vị quản lý nhà nước về y tế, cũng như không bao gồm các cơ sở y tế địa phương (thuộc phạm vi quy hoạch tỉnh).
Thay vào đó, quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế đưa ra những định hướng mang tính nguyên tắc để hướng dẫn các địa phương đưa hợp phần mạng lưới cơ sở y tế địa phương vào quy hoạch tổng thể của tỉnh.
Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế được xây dựng trên cơ sở 6 quan điểm phát triển cơ bản:
Thứ nhất, đó là sự phù hợp với những định hướng lớn mang tính quốc gia, bao gồm định hướng, tầm nhìn phát triển đất nước; chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch tổng thể quốc gia và các quy hoạch cấp quốc gia khác có liên quan.
Thứ hai, đó là yêu cầu bảo đảm cung ứng dịch vụ toàn diện, lồng ghép, liên tục với sự tiếp cận thuận lợi và khả năng bảo vệ tài chính. Cùng với đó là yêu cầu bảo đảm an ninh y tế, ứng phó với biến đổi khí hậu và các tình huống khẩn cấp.
Thứ ba, phát triển mạng lưới cơ sở y tế gắn liền với đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức quản lý, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Phát triển mạng lưới cơ sở y tế bảo đảm tính cân đối, đồng bộ, kết nối hiệu quả giữa mạng lưới cơ sở y tế cấp quốc gia với mạng lưới cơ sở y tế địa phương.
Nhân viên y tế thôn bản. Ảnh: Chinhphu.vn
Thứ tư, phát triển mạng lưới cơ sở y tế theo hướng kết hợp hài hòa giữa y tế cơ sở và y tế chuyên sâu; giữa y học cổ truyền với y học hiện đại; giữa y tế lực lượng vũ trang và dân y gắn với xây dựng tiềm lực y tế quốc phòng, an ninh.
Thứ năm, huy động tối đa nguồn lực đầu tư để phát triển mạng lưới cơ sở y tế theo quy hoạch, đi đôi với sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư.
Thứ sáu, bảo đảm tính công bằng, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các khu vực, vùng, miền, hướng tới mục tiêu mọi người dân đều được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng.
Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế xác định sự kiên định trong việc theo đuổi mục tiêu công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế, đảm bảo phát triển mạng lưới y tế cơ sở. Từ đó tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân và đủ năng lực đáp ứng nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong từng thời kỳ, đồng thời từng bước tiệm cận hệ thống y tế của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế cũng xác định các chỉ tiêu phấn đấu rất cao về quy mô giường bệnh và nhân lực y tế chủ chốt. Theo đó, tới năm 2050 các chỉ số này của Việt Nam sẽ đạt mức bình quân của nhóm nước công nghiệp phát triển hàng đầu (các nước thuộc tổ chức OECD).
Hình thành cơ quan kiểm soát bệnh tật trung ương và 3 trung tâm khu vực
Thứ nhất, đối với lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh: Phát triển mạng lưới cơ sở y tế theo định hướng công bằng, hiệu quả, phát triển và hội nhập quốc tế thông qua phát triển năng lực chuyên môn kỹ thuật cấp chăm sóc chuyên sâu (trong đó một số bệnh viện được phát triển bệnh viện chuyên sâu kỹ thuật cao, hiện đại, ngang tầm các nước phát triển trong khu vực và quốc tế); gia tăng tổng nguồn cung các dịch vụ chăm sóc chuyên sâu tuyến cuối, bao gồm cả tổng cung và cung dịch vụ chuyên sâu tuyến cuối của một số chuyên khoa ưu tiên, như ung bướu, tim mạch, sản/sản - nhi, lão khoa, phục hồi chức năng, y học cổ truyền, truyền nhiễm; cải thiện sự phân bổ trên không gian địa lý của các bệnh viện cung ứng dịch vụ chăm sóc chuyên sâu tuyến cuối nhằm cải thiện khả năng tiếp cận địa lý; đảm bảo vai trò ứng phó cấp vùng khi có dịch bệnh, thảm hoạ.
Đối với lĩnh vực y tế dự phòng, y tế công cộng
Hình thành cơ quan kiểm soát bệnh tật Trung ương (với hệ thống phòng xét nghiệm an toàn sinh học cấp 4) và 3 trung tâm kiểm soát bệnh tật khu vực (với hệ thống phòng xét nghiệm an toàn sinh học cấp 3) gắn với các Viện Vệ sinh dịch tễ và Pasteur hiện có, để đảm nhận vai trò kết nối, hỗ trợ các trung tâm kiểm soát bệnh tật cấp tỉnh, đảm bảo vai trò kết nối trong nước và quốc tế;
Đồng thời hỗ trợ các CDC tỉnh bảo đảm đủ năng lực dự báo, giám sát và phát hiện sớm, khống chế kịp thời, có hiệu quả các dịch bệnh và kiểm soát các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng.
Hình thành đơn vị quốc gia về chuyển giao công nghệ vaccine tại Hà Nội nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ trong sản xuất vaccine và sinh phẩm y tế trên phạm vi toàn quốc.
Nâng cao năng lực và cơ sở vật chất của các đơn vị giám định y khoa, giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần hiện có. Xây dựng mới 1 cơ sở giám định pháp y khu vực tại TPHCM; 2 cơ sở giám định pháp y tâm thần khu vực tại Nghệ An và TPHCM.
Phát triển 6 trung tâm sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh khu vực hiện có tại các vùng đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Hình thành 2 trung tâm sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh cấp vùng tại vùng trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên.
Phát triển các dịch vụ kỹ thuật chuyên sâu về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi gắn với các bệnh viện lão khoa, bệnh viện có chuyên khoa lão. Hình thành bệnh viện lão khoa tại vùng đồng bằng sông Cửu Long…
Hoàng Tươi (t/h)
Bạn quan tâm mục gì nhất trong Website của chúng tôi?