Sạt lở đất là hiện tượng đất bị sạt, trượt do tác động của mưa, lũ hoặc dòng chảy. Sau đây là một số khuyến cáo, hướng dẫn về dấu hiệu, những việc nên làm, không nên làm nhằm giảm thiểu những thiệt hại do sạt lở đất gây ra.
Sạt lở đất (ảnh minh hoạ, nguồn internet)
Sạt lở đất là hiện tượng địa chất có tính nguy hiểm cao. Hiện tượng này xảy ra khi có một khối đá hoặc một tầng đất hoặc những khối mảnh vụn của đất đá rời rạc trượt xuống một triền núi hoặc đồi, thậm chí một địa tầng.
Sạt lở đất có thể xảy ra bất cứ đâu từ thành phố, thị trấn tới các khu đồi núi cao. Chính vì vậy, các cơ quan chức năng cần có các hoạt động điều tra địa chất, quan trắc thực địa định kỳ để dự đoán các nguy cơ sạt lở đất tiềm ẩn, có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Theo Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai, sạt lở đất là hiện tượng đất bị sạt, trượt do tác động của mưa, lũ hoặc dòng chảy. Một số dấu hiệu giúp sớm nhận biết nguy cơ xảy ra sạt lở đất gồm: mưa nhiều ngày/mưa lớn; có vết nứt trên tường nhà, sườn đồi, mái dốc, cây nghiêng, màu nước sông, suối từ trong chuyển thành đục...; mặt đất phồng lên, cây cối rung chuyển, có âm thanh lạ trong lòng đất.
Nguyên nhân dẫn đến sạt lở đất
Sạt lở đất bắt nguồn từ những tác động của ngoại lực vào khối đất đá trên mái dốc, đỉnh đồi làm đất đá vỡ ra và lăn xuống với vận tốc lớn. Ngoại lực này thường đến từ những cơn mưa lớn, tuyết tan, động đất hay vỡ đập thủy điện. Lượng nước lớn đổ xuống khu vực sẽ làm phân rã các mối liên kết của đất đá và rễ cây, thảm thực vật gây ra sạt lở đất.
Hiện nay, đa số các vụ sạt lở đất là do con người khai thác rừng quá mức. Các công trình dân sinh dưới chân núi ảnh hưởng tới địa tầng. Kết hợp cùng các cơn bão dữ dội, tình trạng sạt lở đất ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Theo các nhà nghiên cứu, sạt lở đất thường xảy ra dựa trên 3 yếu tố chính: địa chất; hình thái, cấu trúc đất và hoạt động của con người trên khu vực đó.
Yếu tố về địa chất
Sạt lở đất mang theo đất đá trượt xuống sườn đồi. Vì vậy, yếu tố đầu tiên cần khảo sát là địa chất khu vực. Tại vùng có địa hình yếu, bị đứt gãy thường dễ chịu ảnh hưởng tiêu cực từ thời tiết gây nên sạt lở đất.
Yếu tố về hình thái, cấu trúc đất
Một khu vực sẽ có các tầng địa chất khác nhau. Cấu trúc đất đá, thảm thực vật của vùng đó quyết định hiện trạng, hình thái khu vực. Ví dụ vùng rừng nguyên sinh sẽ có thảm thực vật và cây cổ thụ lớn giúp giữ cấu trúc đất tốt hơn trong các trường hợp mưa lớn hay động đất cường độ nhỏ, ảnh hưởng tới địa tầng.
Yếu tố về hoạt động của con người
Hoạt động của con người ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sống. Việc phát triển nông nghiệp bừa bãi, không theo quy hoạch hay nạn phá rừng sẽ tiềm ẩn những hậu quả khôn lường. Đặc biệt, các công trình công nghiệp, dân dụng trên triền núi, triền dốc trực tiếp làm suy yếu cấu trúc đất, dễ dẫn tới sạt lở trong tương lai.
Chính vì vậy, trước khi xây dựng, lắp đặt hệ thống cấp thoát nước hay phát triển nông nghiệp, con người cần có những tính toán cụ thể để đảm bảo an toàn và tính mạng cho người và của.
Hậu quả của sạt lở đất
Sạt lở đất có thể gây ra tỷ lệ tử vong và thương tích cao do nước và mảnh vụn chảy xiết. Nguyên nhân tử vong phổ biến nhất trong các vụ lở đất là chấn thương hoặc ngạt thở do mắc kẹt.
Sạt lở đất cũng có thể ảnh hưởng lớn đến hệ thống y tế và các dịch vụ thiết yếu như nước, điện hoặc đường dây thông tin liên lạc.
Đường điện, nước, khí đốt hoặc nước thải bị hỏng có thể gây ra thương tích hoặc bệnh tật cho người dân chịu ảnh hưởng của sạt lở đất. Những người bị ảnh hưởng bởi sạt lở cũng có thể gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần trong ngắn hạn và dài hạn do bị mất gia đình, tài sản, gia súc hoặc mùa màng.
Sạt lở đất diễn biến nhanh, bất ngờ gây ra các hậu quả nghiêm trọng cho các công trình dân sinh như trường học, nhà ở. Sạt lở đất thường xảy ra ở vùng trung du miền núi, cuốn trôi và phá hủy nhiều tài sản tài sản, gây thiệt hại về gia súc, gia cầm, vật nuôi. Các công trình kiến trúc mà sạt lở đất quét qua rất khó có thể phục hồi. Người dân mất rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc cải tạo lại nền đất để tiếp tục sản xuất và cư trú.
Các biện pháp phòng ngừa sạt lở đất
Để phòng ngừa và giảm thiểu tối đa hậu quả do sạt lở gây ra, chúng ta cần áp dụng một số biện pháp như sau:
- Tiêu thoát nước, làm giảm ứng suất cắt và tăng sức chống cắt của đất.
- Bạt thoải mái dốc địa hình, hạ thấp độ cao mái dốc bằng cách giật cấp, tạo các đường cơ, đặc biệt là trong xây dựng hệ thống đường giao thông trên các đới vỏ phong hóa.
- Bảo vệ bề mặt mái dốc (trồng cỏ, sử dụng vật liệu địa kỹ thuật, xây phủ bằng bê tông,...), tăng cường bảo dưỡng các taluy sườn dốc hệ thống đường giao thông.
- Làm giảm lưu lượng và cản trở sự truyền lũ. Trong đó có thể xây dựng các hồ chứa nước trên lưu vực, nhằm mục tiêu điều tiết nước, hạn chế tập trung nước gây lũ quét, giữ lại một phần dòng chảy bùn rác, cắt đỉnh lũ cho hạ lưu trên lưu vực vào mùa mưa. Tuy nhiên, khi xây dựng các hồ này, nên tính tới hiệu quả kinh tế - xã hội, coi các công trình đó có thể phục vụ đa mục tiêu (chống lũ, chống hạn phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi thủy sản, phát điện, gián tiếp hạn chế nạn phá rừng thu hẹp tầng phủ...).
- Tăng khả năng điều tiết dòng chảy ở những vị trí có nguy cơ tắc nghẽn trên sông suối.
+ Gia cố tăng cường sự bền vững của đập nước, và bờ sông suối ở những vùng phát triển kinh tế - xã hội.
+ Bảo vệ rừng đầu nguồn và trồng cây nhằm gia tăng độ che phủ rừng trên bề mặt địa hình.
+ Xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, công trình thủy lợi, thủy điện, nhà ở,.. cần tính toán tới việc đầu tư đảm bảo tính kháng trượt, kháng lũ, kháng sụt, kháng chấn,...trong những giới hạn cho phép ở các khu vực phát triển kinh tế - xã hội có độ rủi ro cao về tai biến địa chất.
- Đối với các điểm trượt lở trong đá phong hóa dọc theo các vách taluy theo đường giao thông:
+ Tiến hành bóc bỏ lớp đá phong hóa có kết cấu yếu, kết hợp hạ độ dốc mái taluy; phân bậc mái dốc thành các cấp và kè đá kín bề mặt khối trượt để chống tác động phá hoại của nước mặt; xây dựng hệ thống rãnh thoát nước, các rãnh nghiêng phân bậc trên sườn dốc, nhằm hạn chế quá trình thấm nước.
+ Xây kè hộ chân mái núi hoặc kè hộ chân vách taluy âm. Kết hợp gia cố các khối đất đá bằng các công trình chắn đỡ và neo giữ - nhằm chống lại sự dịch chuyển của khối đất đá. Tại chân các khối trượt không ngập nước có thể xây tường chắn, kè chắn; phần chân khối trượt ở bờ sông hoặc ngập nước có thể xếp rọ đá, lồng đá kết hợp khoan cọc nhồi phun bê tông và xây kè chắn.
+ Tháo khô đất đá bị sũng nước - nhằm chặn nước dưới đất không thấm vào khu vực trượt lở đất, tháo dẫn nước dưới đất ra khỏi khu vực trượt lở đất và hạ thấp mực nước, áp lực của nước dưới đất trong khu vực trượt. Đồng thời kết hợp cải tạo tính chất đất đá - nhằm làm tăng độ cố kết của đất đá, giảm độ ẩm và độ thấm nước, tăng độ ổn định, sức chống trượt của chúng.
+ Bảo vệ thảm thực vật xung quanh và trên bề mặt khối trượt, kết hợp trồng cỏ (cỏ vetiver) trên thân trượt hạn chế xói lở bề mặt địa hình.
- Đối với các điểm trượt tịnh tiến: Tùy từng khối trượt có thể dùng nêm cố định khối trượt bằng cách khoan và cắm một mạng lưới các cọc bê tông- sắt vuông góc với bề mặt trượt (các cọc cắm sâu vào tầng đất đá ổn định tùy vị trí cụ thể) hoặc xây tường chắn ở chân khối trượt.
- Đối với trượt hỗn hợp quy mô lớn: Các điểm trượt hỗn hợp có mặt trượt ẩn sâu thường có quy mô lớn, tính chất phức tạp, là sự tác động tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó vai trò của yếu tố kiến tạo rất lớn, nên việc xử lý bằng các giải pháp công trình rất tốn kém và hiệu quả không cao. Đối với một số điểm trượt lớn cần nghiên cứu chi tiết để xác định chiều dày khối trượt, hình thái mặt trượt, trên cơ sở đó tính toán lực tác động của đất đá trên xuống phía dưới để đề xuất giải pháp cụ thể.
- Đối với xói lở sông: Khắc phục xói lở bờ sông là rất khó khăn do thung lũng sông hẹp, cấu tạo đất đá đường bờ ít ổn định, dòng chảy hướng thẳng vào bờ, nên vào mùa lũ xói lở tất yếu sẽ xảy ra và sẽ kéo theo hiện tượng trượt lở phá đường bờ, gây mất nền đường. Giải pháp khả thi hiện nay là xây kè bê tông hoặc xếp rọ đá, lồng đá dọc đoạn bờ sông bị xói lở.
BCXB (t/h)
Bạn quan tâm mục gì nhất trong Website của chúng tôi?