
Cố đô Hoa Lư là quần thể di tích lịch sử văn hóa liên quan đến sự nghiệp của các nhân vật lịch sử thuộc ba triều đại nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, tính từ Đinh Tiên Hoàng đến Lý Thái Tổ. Xưa nơi đây là Kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền ở Việt Nam với các dấu ấn lịch sử: thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Năm 1010, Vua Lý Thái Tổ dời Kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội), Hoa Lư trở thành Cố đô. Các triều Vua Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau đó dù không đóng đô ở Hoa Lư nữa nhưng vẫn cho tu bổ và xây dựng thêm ở đây nhiều công trình kiến trúc như đền, lăng, đình, chùa, phủ… Khu di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư hiện nay có diện tích quy hoạch là 13,87 km². Với bề dày thời gian hàng nghìn năm, Cố đô Hoa Lư là nơi lưu trữ các di tích lịch sử qua nhiều thời đại.
Lễ hội Cố đô Hoa Lư là lễ hội truyền thống nhằm suy tôn công lao các anh hùng dân tộc đã xây dựng, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt thế kỷ X tiêu biểu là hai vị Vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Lễ hội diễn ra tại sân trung tâm khu di tích Cố đô Hoa Lư và các di tích. Đây là một lễ hội cổ truyền hướng về cội nguồn dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Lễ hội có lịch sử từ khi Kinh đô Hoa Lư trở thành Cố đô. Lễ hội còn có tên là lễ hội cờ lau vì có màn diễn tái hiện cảnh Đinh Bộ Lĩnh với trò chơi "Cờ lau tập trận". Lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư có quy mô lớn nhất vào những năm có số hàng đơn vị là 3, 5, 8, 0. Lễ hội được mở vào mùa xuân, thường là các ngày mùng 8, 9, 10 tháng Ba âm lịch hàng năm. Không gian của lễ hội là cả một vùng rộng lớn gồm: hai khu vực đền Vua Đinh và đền Vua Lê (trung tâm), chùa Nhất Trụ, phủ Bà Chúa, núi Mã Yên, sông Hoàng Long, động Am Tiên, động Thiên Tôn, hang Luồn… Phần lễ có: lễ rước nước, lễ dâng hương, tế nữ quan, tế nam quan… Phần hội thường có: tập trận cờ lau, múa rồng, múa lân, kéo chữ, đấu vật, chọi gà và thời gian gần đây có thêm tiết mục làng vui chơi, làng ca hát, cuộc thi người đẹp Cố đô Hoa Lư…
Vào buổi sáng ngày khai hội hàng năm thường diễn ra lễ rước nước. Lễ thức đặc biệt này được chuẩn bị rất công phu, kỹ lưỡng. Trước ngày khai hội, ở bến sông Hoàng Long gần cửa Đại Hoàng xưa, người ta trồng dưới sông cả một cây tre lớn, cành lá xanh tốt. Nơi ngọn tre có treo dải phướn bằng vải màu sặc sỡ ghi lời chú. Nội dung lời chú trước đây đại lược là: Thần dân, con cháu trăm họ luôn nhớ ơn Rồng Vàng ở sông này đã cứu giúp vị hoàng đế nước Đại Việt. Cầu mong thần linh giữ cho dòng nước mát hiền hoà, phù trợ cho dân nước Đại Việt tránh mọi điều ác dữ.
Ngày khai hội, khi mặt trời còn chưa ló lên khỏi Mã Yên Sơn, đoàn người đi rước nước đã khởi hành từ cổng đền Vua Đinh, qua đền Vua Lê để ra bến sông. Dẫn đầu là những người mang cờ ngũ sắc, đi hàng đôi. Kế tiếp là phường bát âm, gồm: đàn, sáo, nhị, mõ, thanh la và cả một phường trống. Phường bát âm cử nhạc réo rắt các làn điệu: kim tiền, bình bán, lưu thuỷ, xuân phong. Tiếng trống, tiếng thanh la âm vang sôi động. Cỗ kiệu lớn đi đầu, do tám thanh niên khoẻ mạnh khiêng. Trang phục của họ tựa như trang phục lính túc vệ nhà Đinh. Hương án trên kiệu có đặt một chiếc bình sứ, ngoài phủ vải điều để đựng nước thiêng. Đi sau kiệu rước là các vị bô lão, quan khách, đại biểu các đoàn thể, địa phương. Tiếp đến là đội rồng, đội lân, rồi các cỗ kiệu bát cống có hương án, tán lọng, hương, nến, quả, phẩm song hành, nghiêm trang, chỉnh tề, náo nhiệt. Đi bên mỗi kiệu rước là một vị bô lão trang phục lễ nghi dân tộc.
Khi đoàn rước ra tới bến sông thì hương án có đặt bình sứ được đưa xuống thuyền trước tiên, sau đó là rồng vàng, sư tử. Trống chiêng gióng lên từng hồi, âm vang rộn rã, thúc giục. Rồng vàng uốn lượn uy phong trên sóng nước. Sư tử múa dũng mãnh, hả hê.
Lễ tế: Ngay sau khi đoàn rước nước trở về sân khấu trung tâm lễ hội, sau nghi thức thả rồng bay thì khởi điểm phần lễ tế tại hai đền Vua Đinh, Vua Lê. Phần tế có sự tham gia của nhiều đoàn theo lịch đăng ký. Các đoàn rước kiệu và chân nhang từ các di tích thờ các danh nhân thời Đinh - Lê sẽ tham gia rước kiệu về hai đền, hầu hết các đoàn ở cự ly xa phải rước trên xe lễ hội tiến về Hoa Lư. Lễ tế được tiến hành sau đó cả ban ngày và ban đêm ở cả đền Vua Đinh và Vua Lê với nội dung ca ngợi công đức của hai vị Vua, xen kẽ đó du khách vào thắp hương tưởng niệm.
Màn sân khấu hóa - là màn diễn sân khấu đương đại để khai mạc lễ hội và truyền hình trực tiếp. Sau lời diễn văn khai mạc là màn trống hội Hoa Lư, các màn diễn tái hiện lịch sử trọng đại diễn ra tại Kinh đô Hoa Lư xưa như: Sự kiện lên ngôi hoàng đế của Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn; đánh thắng giặc Tống; dời đô về Thăng Long và kết thúc là màn thả rồng bay lên cho tới hết buổi sáng khai mạc.
Cũng như nhiều lễ hội dân gian khác của Việt Nam, phần hội trong lễ hội Cố đô Hoa Lư có các trò chơi dân gian đặc sắc như: đua thuyền, múa gậy, cờ người, xếp chữ, ném còn, thi hát chèo, vật, thư pháp. Ngoài ra, lễ hội Cố đô Hoa Lư còn có một số trò chơi đặc trưng tiêu biểu như: cờ lau tập trận, kéo chữ và thi người đẹp Kinh đô Hoa Lư.
Cờ lau tập trận là trò diễn dân gian để diễn tả lại những buổi tập dượt, rèn luyện của người anh hùng Đinh Bộ Lĩnh tuổi niên thiếu, thể hiện ý chí của ông và ba quân. Tham gia màn diễn trò Cờ lau tập trận có 60 em thiếu niên 13-15 tuổi. Em khôi ngô nhất được chọn đóng Đinh Bộ Lĩnh, đội mũ bình thiên bằng rơm, tay cầm bông lau có tán vàng, tán tía. Quân Thung Lau, Thung Lá có chiêng, trống cái, thanh la, đứng hai bên múa hát đối đáp và diễn cảnh Vua Đinh cầm cờ lau tập trận.
Màn diễn xếp chữ Thái Bình để tưởng nhớ niên hiệu mà Vua Đinh Tiên Hoàng đặt khi lên ngôi, đây cũng là tên gọi của đồng tiền Thái Bình đầu tiên ở Việt Nam. Tham gia màn diễn có 120 thiếu nữ mặc áo tứ thân màu xanh, tay cầm cờ, theo nhịp trống giục 3 tiếng một mà chạy kéo chữ. Hàng thứ nhất kéo chữ Thái, chạy vòng lên phía trước kéo xuống thành nét “thanh”, rồi lại vòng lên phía tay trái kéo xuống thành nét “mác”, cuối cùng chạy vòng lên phía tay phải kéo xuống tạo thành nét “chấm”. Vậy là thành chữ “Thái”. Trong khi đó, ở hàng thứ 2, các em chạy và kéo chữ “Bình”. Cả hai hàng hạ cờ làm nổi rõ hai chữ “Thái Bình”.
Từ năm 2005, cuộc thi "Người đẹp Kinh đô Hoa Lư" trở thành cuộc thi sắc đẹp dành cho các thí sinh nữ khu vực vùng văn hóa Hoa Lư và lân cận. Các vòng loại đã diễn ra trước đó, vòng chung kết diễn ra tại sân khấu lễ hội Hoa Lư.
Lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư hàng năm biểu hiện một mối quan hệ mật thiết, hữu cơ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc Việt Nam, bao hàm được những yếu tố: linh khí núi sông, tâm thức dân gian về cội nguồn đất nước, dân tộc theo đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”./.
Minh Ngọc (tổng hợp)
Bạn quan tâm mục gì nhất trong Website của chúng tôi?